Mã hàng: 8935280914391 Nhà phát hành: Thái Hà Nhà xuất bản: Hà Nội Tác giả: Nguyễn Thế Đăng Năm xuất bản: 2023 Số trang: 336 Trọng lượng: 380gr Kích thước: 20.5 x 13 x 1.6 cm
📖📖📖 Thực tại xưa và nay Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri
Kiến Phật hay Thật tướng của các pháp trong kinh Pháp Hoa, là Như Lai Tạng trong kinh Lăng
Nghiêm, Thắng Man, là Pháp Giới Tánh trong kinh Hoa Nghiêm, là Tánh Giác trong kinh Viên Giác, là Tánh Không trong kinh Đại Bát Nhã, là Thánh Trí Tự Giác trong kinh Lăng Già…
Với những Thiền sư Việt Nam cũng có rất nhiều tên để gọi nó. Nhưng dù gọi bằng danh từ gì, chỉ bày theo cách nào, thì cũng chỉ là một Thực Tại xuyên suốt dòng lịch sử Thiền.
Sau đây, chúng ta sẽ dạo những bước chân thăm dò, chiêm ngưỡng phần nào những gì các Thiền
sư ngày xưa đã muốn chỉ dạy, đã muốn truyền lại cho muôn đời sau. Chính sự tiếp cận của các ngài và cách thức làm cho người khác tiếp cận với Thực Tại - những điều làm nên cuộc đời của các ngài - đã làm nên Thiền Tông, cũng là dòng chảy chính của tâm linh và văn hóa Việt Nam.
Tác giả: Đương Đạo Nguyễn Thế Đăng là một nhà sư, thuộc thế hệ thứ ba của Tổ Khai sơn chùa Tây Tạng ở Bình Dương là Thiền sư Nhẫn Tế (1888 – 1951). Tổ vốn thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 40, từng sang Ấn Độ, Nepal và Tây Tạng tham bái và tu học. Tổ đã cầu đạo ở Tây Tạng, đắc pháp và được ban cho pháp danh Thubten Osel bởi những vị cao cấp của dòng Mũ Vàng (Gelugpa). Sau hơn một năm ở Tây Tạng, Tổ được phép trở về Việt Nam để lập chùa Tây Tạng, Bình Dương.
Trích đoạn sách:
Giải thoát sanh tử Khi một trong những vấn đề chính của Phật giáo là giải thoát khỏi sanh lão bệnh tử, hay nói gọn là sanh tử, thì Thiền tông là một con đường của Phật giáo, chủ đề chính của Thiền phải là giải thoát khỏi sanh tử.
Nguyên nhân nào khiến có sanh tử? Tại sao có sanh tử? Trong Nói Rộng Về Bốn Núi (Phổ Thuyết Tứ Sơn), tức là giảng về bốn núi Sanh, Lão, Bệnh, Tử, vua Trần Thái Tông có bài kệ về núi Sanh như sau:
Trời đất nấu nung vạn tượng thành. Xưa nay không móng cũng không manh Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm Liền trái vô sanh nhận có sanh Mũi lưỡi đắm tham hương lẫn vị Mắt tai mờ mịt sắc cùng thanh Lang thang làm khách phong trần mãi Ngày cách quê hương muôn dặm trường.
(HT. Thanh Từ dịch) (Châu tể luân đào vạn tượng thành Bản lai phi triệu hựu phi manh Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm Khước bối vô sanh thọ hữu sanh Tỵ trước chư hương thiệt tham vị Nhãn manh chúng sắc nhĩ văn thanh Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách Nhật viễn gia hương vạn lý trình.)
Sanh mở đầu cho tiến trình sanh, lão, bệnh, tử. Nhưng sanh khởi đầu bằng cái gì? Đó là do tâm sanh vậy (tâm khởi đầu tất cả các pháp, tâm làm chủ - kinh Pháp Cú). Thế giới có đầy đủ muôn hình tượng, tùy theo nghiệp mà có hình thể, có quá trình sanh trụ hoại diệt. Nhưng ở trong Nền Tảng, chúng có đó mà thật là không, động đó mà thật là không động.
Trong thật tế hay thật tướng, trong cái bản lai thì “không móng cũng không manh”, chưa từng có một hạt bụi dấy lên, sóng chưa từng tách lìa khỏi nước. Kinh Pháp Hoa nói: “Các Pháp từ xưa nay, thường tự tịch diệt tướng.” Chỉ vì tâm động cho nên có thế giới chỉ toàn là chuyển động, vì tâm phân biệt khởi lên nên có thế giới phân chia. Vì tư tưởng phân biệt khởi lên nên có thời gian cách biệt, không gian cách biệt.
Quá trình sanh tử chỉ là quá trình của tâm chuyển động thành tư tưởng phân biệt sai lầm. Nói theo Kinh, Luận thì chỉ do “một niệm bất giác”, hoặc nói như ngài Trần Thái Tông, chỉ vì sai khác một cái bèn có niệm và như vậy là quên đi, lìa ngoài cái vô niệm. Chỉ một niệm sai khác bèn lìa khỏi Nhất Tâm để xoay chuyển, khúc xạ thành muôn ngàn thứ tâm, muôn ngàn sai biệt, muôn ngàn hình tướng, muôn ngàn vọng tưởng. Chỉ một niệm sai khác “liền trái vô sanh nhận có sanh”. Từ tâm sai khác một niệm, bèn có ý thức phân biệt chia cắt và rồi đi xa thêm trong việc sử dụng lầm lạc các giác quan. Một khi đã lìa khỏi vô niệm, vốn là bản tánh của tâm, vốn là thực tại nền tảng, lạc vào trong bộ máy nghiệp của tư tưởng và tri giác giác quan, thì mỗi ngày mỗi cách xa quê nhà, tức là thực tại “xưa nay không móng cũng không manh” vốn hằng hằng vô niệm, nghĩa là không bị vọng niệm làm ô nhiễm. Và bởi vì “xưa nay không móng cũng không manh” cho nên xưa nay không lìa khỏi đương niệm, nghĩa là vẫn muôn đời trước mắt.